Đánh giá Nikon Zf – Khi vẻ đẹp của sự hoài cố được tái sinh

0
222

Lấy cảm hứng từ những chiếc máy ảnh Nikon FM3A từ thế kỷ 20, chiếc máy Nikon Zf ngay khi ra mắt đã gây ấn tượng mạnh mẽ với vẻ đẹp hoài cổ như nhưng gì mà mà Fujifilm đã thiết kế cho dòng máy ảnh X-T. Không chỉ vậy, Nikon cũng đưa vào đó rất nhiều những công nghệ mới nhất từ những dòng máy cao cấp để tối ưu trải nghiệm sử dụng và chất lượng hình ảnh. Trong bài viết này, hãy cùng Anh Đức đánh giá chi tiết về chiếc máy trên nhiều khía cạnh trải nghiệm tổng quan nhất.

Đánh giá Nikon Zf – Khi vẻ đẹp của sự hoài cố được tái sinh

Những tính năng nổi bật

Với cảm biến 24MP, Nikon Zf có thể được xem là phiên bản “cổ điển” của Nikon Z6 II. Nhưng với bộ vi xử lý Expeed 7 mạnh mẽ nhất từ Nikon Z8Z9, chiếc máy sở hữu nhiều tính năng cao cấp, đặc biệt là khả năng nhận dạng và theo dõi các đối tượng khác nhau theo cách thủ công hoặc tự động nhận dạng đối tượng. Không chỉ vậy, tính năng này có thể được sử dụng ở chế độ lấy nét thủ công chỉ dành cho các ống kính có tiếp điểm điện tử.

Với cảm biến 24MP, Nikon Zf có thể được xem là phiên bản “cổ điển” của Nikon Z6 II

Nikon Zf có dải ISO tiêu chuẩn 100-64000 (mở rộng 50-204800), tốc độ chụp liên tục với màn trập cơ học lên đến 7.8 fps, và có thể lên đến 14 fps (tối đa 30fps) với màn trập điện tử. Hệ thống lấy nét cơ bản có 273 điểm lấy nét bao phủ hầu hết cảm biến và có thể hoạt động ở mức ánh sáng thấp đến -10 EV. Bộ ổn định hình ảnh trên chiếc máy với hiệu quả lên đến 8 stops, hỗ trợ chụp ảnh với tốc độ màn trập thấp và tăng tính ổn định cho các thước phim.

Nikon Zf sử dụng pin EN-EL15c tương tự như trên Z6 II và Z7 II

Nikon Zf có thêm tính năng phơi sáng tự động với công nghệ học sâu. Chế độ này phân tích các đối tượng trước máy ảnh và điều chỉnh các cài đặt để đạt hiệu quả tốt hơn so với các chế độ thông thường. Mặc dù là chiếc máy dành cho các nhiếp ảnh gia, nhưng Nikon Zf có khả năng quay phim 4K30p (toàn khung hình), 4K60fps (hệ số cắt 1.5x) và FullHD 120fps. Người dùng có 2 tùy chọn độ sâu màu là 8-bit và 10-bit, đồng thời có thể quay phim liên tục đến 125 phút.

Nikon Zf có các cổng kết nối micro, tai nghe và cổng microHDMI để xuất hình ảnh

Nikon Zf có các cổng kết nối micro, tai nghe và cổng microHDMI để xuất hình ảnh. Để kết nối với các thiết bị di động, chiếc máy hỗ trợ Bluetooth và Wifi thông qua ứng dụng Snapbridge. Ứng dụng này hỗ trợ tải xuống hình ảnh và thể điều khiển máy ảnh từ xa thông qua kết nối Wifi. Bên cạnh các tính năng chính, chiếc máy còn có thêm một số tính năng phụ như sau:

  • Chế độ ảnh B&W: Ở mặt trên và nằm phía dưới vòng xoay tốc độ sẽ có một lẫy chuyển chế độ chụp B&W bên cạnh chế độ quay chụp truyền thống. Chế độ B&W có hai tùy chọn là Flat và Deep Tone với cách thức xử lý hình ảnh khác nhau.
  • Bộ nhớ: Nikon Zf có hai khe cắm thẻ nhớ là SD UHS-II và một khe thẻ Micro SD – một tùy chọn sao lưu hữu ích nhưng sẽ có những hạn chế nhất định về tốc độ đọc ghi.
  • Pin: Nikon Zf sử dụng pin EN-EL15c tương tự như trên Z6 II, Z7 II và Z8, với khả năng chụp được 380 tấm sau mỗi lần sạc đầy và có thể được sạc qua cổng USB-C.

Tính năng siêu độ phân giải (Pixel-shift Multi-shot)

Đây là lần đầu Nikon trang bị tính năng chụp siêu độ phân giải với 4 tùy chọn là chụp 4, 8, 16, và 32 tấm để cải thiện độ chính xác màu sắc ở cấp độ điểm ảnh, giảm nhiễu và tăng độ phân giải. Để sử dụng chế độ này, người dùng nên đặt máy trên tripod và hình ảnh sau khi chụp sẽ được ghép bằng phần mềm NX Studio Software.

Nikon Zf là chiếc máy Nikon đầu tiên trang bị tính năng chụp siêu độ phân giải

Dựa trên những thông tin được cung cấp trong phần hướng dẫn, mỗi chế độ sẽ có cách thức hoạt động như sau:

  • Chụp 4 tấm: di chuyển cảm biến lên, xuống, trái, phải 1 điểm ảnh để lấy mẫu màu toàn bộ các điểm ảnh trên cảm biến
  • Chụp 8 tấm: tương tự như chế độ 4 tấm nhưng được lặp lại để giảm nhiễu
  • Chụp 16 tấm: thực hiện 4 lập chụp 4 tấm để tăng độ phân giải
  • Chụp 32 tấm: tương tự như 16 tấm nhưng để giảm nhiễu hình ảnh

Thiết kế và chất lượng hoàn thiện

Nikon Zf có nét tương đồng về thiết kế với Zfc với 3 vòng xoay ở mặt trên điều khiển tốc độ màn trập, ISO, bù trừ sáng, cùng với lẫy chuyển các chế độ phơi sáng P, A, S, M và Auto. Tuy nhiên, thân máy sẽ có kích thước lớn hơn để chứa cảm biến fullframe và bộ ổn định. Với trọng lượng 700g và kích thước 141 x 101 x 47mm, chiếc máy có cùng chiều cao với Nikon Z6 II nhưng được mở rộng bề ngang vì viên pin được xoay 90 độ để phù hợp với thân máy phẳng.

Nikon Zf có nét tương đồng về thiết kế với Zfc với 3 vòng xoay ở mặt trên

Nikon Zf có chất lượng hoàn thiện rất tốt với lớp vỏ hợp kim magie chống bụi và nước, với phần mặt số được có các giá trị được khắc rõ. Tuy nhiên, phần báng tay cầm khá nhỏ nên rất khó để cầm máy bằng 1 tay, ngay cả khi sử dụng các ống kính nhỏ. Không chỉ vậy, chiếc máy cũng không có phần để ngón tay cái ở phía sau. Dù vậy, phần báng cầm ít nhất cũng chắc chắn hơn so với Nikon Zfc.

Vòng xoay tốc độ có các giá trị từ 1/8000 đến 4 giây và 3 chế độ khác là B (bulb), T (Time) và X (đồng bộ flash). Để thay đổi theo 1/3 stops, người dùng phải sử dụng vòng xoay ở phía trước như Z6 II, cho phép tăng tốc độ lên 15 phút với chế độ Manual. Vòng xoay bù trừ sáng có giá trị mặc định trong khoảng +/- 3EV và có thêm nấc C để mở rộng thêm 2 stops cho mỗi đầu giá trị. Lúc này, người dùng sẽ sử dụng vòng xoay phía sau để thay đổi giá trị.

Các vòng xoay thông số đều được khắc giá trị rõ ràng với mức C cho việc mở rộng thông số

Tuy nhiên, máy ảnh sẽ không hiển thị hình ảnh ở các mức bù sáng ngoài +/- 3EV trên kính ngắm mà chỉ có trên màn hình. Một cập nhật nhỏ trên vòng xoay ISO là vị trí C mới, cho phép thay đổi ISO trên màn hình cảm ứng. Vì không có nấc Auto trên vòng xoay, người dùng phải kích hoạt tính năng này từ menu. Lúc này, vòng xoay ISO vẫn sẽ hoạt động và xác định mức ISO thấp nhất sẽ sử dụng.

Không giống như Nikon Z6 II, Nikon Zf không có cần điều khiển ở mặt sau mà thay vào đó là cụm phím 8 hướng. Cụm phím này hoạt động hơi chậm và kém chính xác với hướng đường chéo, đặc biệt khó sử dụng khi đang đeo găng tay. Đây là điều khá đáng tiếc vì ngoài cụm phím điều hướng, tất cả các nút còn lại đều phản hồi rất tốt. Màn hình cảm ứng cũng được đánh giá tốt vì người dùng có thể thực hiện nhiều thao tác trên đó dù độ nhạy của màn hình không tốt khi sử dụng với găng tay.

Nikon Zf không có cần điều khiển ở mặt sau mà thay vào đó là cụm phím 8 hướng

Nikon Zf cho phép người dùng có thể tùy chỉnh chức năng cho hầu hết các nút, vòng xoay phía trước/sau và cá nhân hóa menu nhanh. Tuy nhiên, chiếc máy không thể lưu lại các thiết lập cho các mục đích khác nhau như chân dung hoặc hành động. Thêm vào đó, vì ống kính Nikon Z không có vòng khẩu độ chuyên dụng, người dùng phải sử dụng nút xoay trên thân máy để thay đổi khẩu độ, với các giá trị được thể hiện ở màn hình nhỏ ở phần trên.

Nikon Zf cho phép tùy chỉnh chức năng cho hầu hết các nút, vòng xoay phía trước/sau và cá nhân hóa menu nhanh

Bên cạnh đó, người dùng có thể tùy biến vòng chức năng trên các ống kính S-Line hoặc vòng lấy nét thủ công trên các ống kính tầm trung trở thành vòng khẩu độ, dù vòng xoay này không có cảm giác nảy như các ống kính lấy nét thủ công. Một lưu ý cuối cùng, mặc dù nút chụp được khoét tâm như các máy phim cổ điển, nhưng nó sẽ không hoạt động với màn trập dây mà chỉ mang tính chất “cổ điển” về mặt hình thức.

Kính ngắm và màn hình

Tương tự như các máy ảnh fullframe phổ thông, Nikon Zf sở hữu kính ngắm có độ phân giải 3.69 triệu điểm ảnh và độ phóng đại 0.8x. Kính ngắm này tương đối lớn, có độ sáng cao và tương đối chi tiết. Người dùng có thể theo dõi các thông số nằm ở 2 dải màu đen phía trên và dưới hình ảnh, cũng như bổ sung thêm các công cụ hỗ trợ như lưới bố cục, cân bằng điện tử và biểu đồ đo sáng.

Nikon Zf sở hữu kính ngắm có độ phân giải 3.69 triệu điểm ảnh và độ phóng đại 0.8x

Kính ngắm theo mặt định sẽ cho phép người dùng xem được màu sắc và độ phơi sáng, nhưng nó còn bổ sung thêm chế độ “PhotoLV” để giả lập hiệu ứng kính ngắm quang học. Với chế độ theo dõi độ sâu trường ảnh, Nikon sẽ đặt ống kính về khẩu độ F4, nhưng người dùng có thể theo dõi ở các mức khẩu độ nhỏ hơn bằng cách gán nó cho một nút chức năng.

Màn hình của Nikon Zf là màn hình xoay lậ t3.2-inch và độ phân giải 2.1 triệu điểm ảnh

Màn hình của Nikon Zf là màn hình xoay lậ t3.2-inch và độ phân giải 2.1 triệu điểm ảnh. Màn hình này hỗ trợ cho việc chụp ảnh ở các góc khó hoặc selfie, tiện lợi hơn so với màn hình chỉ có thể lật lên và xuống. Khi quay phim, màn hình sẽ hiển thị một khung viền đỏ để báo rằng chiếc máy đang ghi hình. Ngoài ra, người dùng có thể lật phần màn hình vào trong để bảo vệ nó.

Khả năng lấy nét

Được trang bị cùng bộ xử lý và thuật toán lấy nét như Z8 và Z9, Nikon Zf hứa hẹn những cải thiện về hiệu suất lấy nét so với các dòng máy Z6 và Z7. Tuy nhiên, việc sử dụng cảm biến thông thường thay vì cảm biến xếp chồng nên sự chênh lệch về hiệu suât cũng sẽ không quá đáng kể. Dù có nhiều tùy chọn lấy nét hiện đại, chiếc máy không có hệ thống nút điều khiển lấy nét riêng mà phải truy cập từ menu nhanh trên màn hình.

Nikon Zf được trang bị cùng bộ xử lý và thuật toán lấy nét như Z8 và Z9

Trên giao diện chính, người dùng có 2 tùy chọn gồm các cách thức lấy nét (chọn vùng lấy nét và phát hiện chủ thể) và các chế độ lấy nét (AF-S, AF-C và MF). Để kích hoạt tính năng phát hiện đối tượng, người dùng phải lựa chọn vùng lấy nét tự động hoặc một trong các cài đặt vùng lấy nét rộng. Hệ thống nhận diện cung cấp nhiều loại đối tượng như người, động vật hoặc phương tiện giao thông để lựa chọn. Nhưng để có trải nghiệm tổng quát, người dùng nên lựa chọn chế độ tự động nhận diện.

Chiếc máy có thể lấy nét và khóa nét nhanh chóng, ngay cả với đối tượng di chuyển thất thường một cách tin cậy

Khi chiếc máy tìm thấy nhiều đối tượng trong khung hình, chúng sẽ được đánh dấu và có thể thay đổi bằng cụm phím điều hướng. Nhìn chung, hệ thống lấy nét này tương đối đơn giản và đáng tin cậy. Trong thử nghiệm thực tế, chiếc máy có thể lấy nét và khóa nét nhanh chóng, ngay cả với đối tượng di chuyển thất thường một cách tin cậy. Với các đối tượng không thể nhận dạng, hệ thống vẫn lấy nét hiệu quả với độ chính xác nhất quán, bất kể vị trí của đối tượng này trong khung hình.

Dưỡi đây là video trải nghiệm lấy nét thực tế trên chiếc máy Nikon Zf

Hiệu suất hoạt động

Mặc dù thiết kế của Nikon Zf vẫn có nhiều vấn đề, nhưng hiệu suất hoạt động của chiếc máy thực sự ấn tượng. Chiếc máy sẽ khởi động rất nhanh khi nhấn công tắc nguồn, đồng thời các nút điều khiển đều phản hồi ngay lập tức. Màn trập cơ học của chiếc máy không hẳn là im lặng hoàn toàn như các dòng máy Fujifilm, nhưng tiếng ồn từ nó rất nhỏ và không quá khó chịu.

Hệ thống đo sáng ma trận của Nikon nhìn chung rất chính xác

Hệ thống đo sáng ma trận của Nikon nhìn chung rất chính xác nhưng thi thoảng có xu hướng tối đa các vùng sáng trong các tình huống có độ tương phản cao. Tuy nhiên, việc điều chỉnh bù trừ phơi sáng có thể tránh được hiện tượng này. Cân bằng trắng tự động hoạt động hiệu quả khi có thể duy trì được tông màu ấm của bình minh và hoàng hôn, điều mà tùy chọn AWB tiêu chuẩn có xu hướng trung hòa quá mức.

Nikon Zf có khả năng tái tạo màu sắc tươi sáng và bắt mắt

Kết hợp với khả năng tái tạo màu sắc tươi sáng và bắt mắt của Nikon, các tệp ảnh JPEG đều có chất lượng tốt và nhất quán. Cài đặt Active D-Lighting giúp nâng độ chi tiết vùng tối và cân bằng nó với phần còn lại của hình ảnh một cách tự nhiên. Nhờ đó mà hình ảnh có thể được chia sẻ trực tiếp từ máy ảnh mà không cần xử lý hậu kì nhiều. Không chỉ vậy, chế độ đơn sắc của Nikon, đặc biệt là tùy chọn Deep Tone, mang đến tông màu thật sự ấn tượng.

Dải nhạy sáng trên Nikon Zf có phạm vi rộng để bảo toàn chi tiết vùng tối mà không gặp vấn đề về nhiễu

Khi làm việc với các tệp RAW ở các mức ISO thấp, dải nhạy sáng có phạm vi rộng để bảo toàn chi tiết vùng tối mà không gặp vấn đề đáng kể về nhiễu. Về mặt này, Nikon Zf ít nhất cũng sánh ngang với các đối thủ như Panasonic Lumix S5 II. Hệ thống ổn định hình ảnh hoạt động ổn định, cho phép chụp ảnh ở tốc độ cửa trập đến 2 giây với nhiều ống kính khác nhau. Tuy nhiên, chiếc máy không cho biết liệu tính năng liên kế chế độ VR đến diểm lấy nét có thực sự hữu ích hay không.

Nikon Zf có khả năng chụp liên tục 7.8 fps ở chế độ H với chế độ lấy nét liên tục trên màn hinh (AF-C), và lên đến 14 fps với chế độ H+ với định dạng JPEG. Trong khi ở định dạng RAW, tốc độ sẽ giảm xuống lần lượt là 6.9 fps và 11 fps. Nhà sản xuất giới hạn số lượng khung hình trong bộ đệm là 200 tấm ở chế độ H và 160 tấm ở chế độ H+ với thẻ nhớ SD UHS-II tốc độ cao.

Ảnh chụp mẫu từ NIkon Zf

Hiệu suất ghi hình còn giảm xuống rõ rệt khi sử dụng thẻ MicroSD, với con số lần lượt là 85 với chế độ H (73 ở chế độ H+). Nhưng điều này có lẽ không quá nghiêm trọng vì với cùng mức dung lượng, thẻ Micro SD sẽ có mức giá tốt hơn. Thời lượng pin của Nikon Zf chỉ đạt 380, nhưng trong thực thế người dùng có thể chụp lên đến nghìn tấm khi chụp liên tục với một viên pin đầy.

Ảnh chụp mẫu từ NIkon Zf

Với những người dùng đang sử dụng các ống kính lấy nét thủ công, Nikon Zf sở hữu kính ngắm lớn phù hợp cho việc quan sát vùng nét, trong khi nút thu phóng vị trí lấy nét ở mặt sau giúp người dùng điều chỉnh vùng nét chính xác hơn. Nếu sử những ống kính có chip điều khiển với ngàm chuyển FTZ, máy ảnh sẽ tự động nhận diện thông tin từ chúng. Với các ống kính khác, người dùng phải đặt tiêu cự thủ công để tính năng ổn định cảm biến hoạt động chính xác.

Ảnh chụp mẫu từ NIkon Zf

Điều này được thực hiện bằng tùy chọn dữ liệu ống kính không CPU, cho phép lưu thông tin giữa tiêu cự và khẩu độ cho tối đa 20 ống kính để chuyển đổi nhanh giữa chúng. Với chế độ chụp ảnh siêu độ phân giải, nó vừa có hiệu quả nhưng cũng có mặt hạn chế. Chế độ 4 tấm cung cấp độ sắc nét và độ chuyển màu tốt hơn, trong khi chế độ 16 tấm ghi được độ chi tiết cao hơn rõ rệt. Nhưng nếu chụp hình các chủ thể di chuyển, các chi tiết giả sẽ xuất hiện và ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh.

Ngoài ra, chế độ chụp 8 ảnh và 32 ảnh không cho thấy lợi ích rõ ràng và chúng lãng phí dung lượng so với hai chế độ trên. Về khả năng quay phim, Nikon Zf có ưu thế mạnh về độ phơi sáng chính xác, cân bằng trắng và màu sắc đẹp mắt. Hệ thống ổn định bên trong giảm bớt hiện tượng giật hình khi người dùng cầm tay. Do đó, chiếc máy không chỉ phục vụ tốt cho việc chụp ảnh, mà còn có khả năng hoàn thành tốt công việc quay chụp hỗn hợp với chất lượng video tương đối tốt.

Một số thử nghiệm quay phim và chỉnh màu với các sản phẩm từ Nikon Zf

Khả năng xử lý ISO

NIkon Zf có khả năng xử lý nhiễu ở ISO cao như những gì mà người dùng mong đợi ở một máy ảnh fullframe 24MP. Ở các mức ISO thấp, hình ảnh tương đối rõ ràng và chi tiết với lượng nhiễu ở mức tối thiểu. Hầu như không có sự khác biệt đáng kể giữa các mức ISO dưới 1600. Từ mức này trở lên, hình ảnh bắt đầu mất đi độ chi tiết nhưng nhìn chung vẫn tương đối tốt ngay cả ở mức ISO 6400.

Ảnh chụp mẫu từ NIkon Zf ở ISO 100

Ảnh chụp mẫu từ NIkon Zf ở ISO 1600

Ảnh chụp mẫu từ NIkon Zf ở ISO 12800

Ảnh chụp mẫu từ NIkon Zf ở ISO 25600

Ảnh chụp mẫu từ NIkon Zf ở ISO 51200

Khi lên mức ISO 25600, chất lượng hình ảnh giảm dân một cách đáng kể và đây cũng là mức giới hạn cho hầu hết các mục đích sử dụng. Dưới đây là các hình ảnh được phóng to 100%, ở các mức ISO 100, 1600, 12800, 25600 và 51200 để bạn đọc so sánh chất lượng.

Đánh giá chung Nikon Zf

Nikon Zf là sự kết hợp hoàn hảo giữa thiết kế cổ điển mang tính biểu tượng của Nikon của thế kỷ trước, kết hợp với những công nghệ hiện đại nhất mà nhà sản xuất này đang sở hữu. Dù còn một số điểm chưa hợp lý về mặt thiết kế và điều khiển, nhưng người dùng hoàn toàn ấn tượng không chỉ với chất lượng hình ảnh, mà còn nằm ở hệ thống lấy nét và nhận diện chủ thể hoàn toàn ấn tượng với độ tin cậy cao.